Chi tiết địa điểm Chi tiết địa điểm


0.0
17
Hình ảnh
0
Bình luận
0
Tiện ích

Xã Thạnh Phú, huyện Châu Thành, tỉnh Tiền Giang
ngoclua
Đang mở cửa (08:00 - 16:30)
Khoảng cách:
Thời gian:
Chỉ đường

Danh sách hình ảnh địa điểm

Danh sách video

Không có video

Danh sách tiện ích

Không có dữ liệu

Giới thiệu địa điểm

Chùa Sắc Tứ Linh Thứu nguyên thuở trước là Long Tuyền Tự. Tương truyền lời của các bậc kỳ lão, thì chùa được khởi thủy từ đời nhà Lê vua Cảnh Hưng (vì lâu quá không rõ niên hiệu). Thuở ấy, nền chùa là một khu đất hoang vu tịch mịch, cách xa làng xóm. Bọn Mục đồng theo lệ thường, mỗi ngày thả trâu đi ăn, cùng nhau hội hợp tại đây để chơi giỡn. Chúng đốn cây, kéo lá, cất một cái chòi, nắn tượng Phật mà thờ phụng. Từ đó mỗi sớm sớm chiều chiều, thường dùng cảnh chùa giả ấy làm nơi nghỉ mát vui chơi hằng ngày. Ngày tháng trôi qua, bóng quang thấp thoáng, thời tiết đổi thay, chắc cũng có nhân duyên, nên các bậc tiền đức mới lần lần nối nhau xây dựng thành tòa Lan nhã. Lúc ấy có thầy địa lý, nhân dịp tá túc tại chùa, xem khu đất xong khen rằng: “Chùa này phong thủy rất đẹp, lại ở nhằm mạch suối rồng, ngày sau sẽ có chơn mạng Đế Vương đến ngự”. Nhân đó mới đặt là “Long Tuyền Tự” ( ) tức là chùa suối rồng. Từ đó về sau trăng khuya bóng xế, êm đềm soi cảnh tịnh am tranh, mõ sớm chuông chiều, chim gió hòa cùng hơi pháp ngữ. 

Quả đúng như lời của nhà địa lý tiên đoán. Vào thời “Nam Bắc phân tranh”, Nguyễn Ánh (tức là đức Cao Hoàng triều Nguyễn) lúc ấy thế còn cô yếu, mà quân Tây sơn lại mạnh mẽ, nên Ngài bị thua, ra Bắc vào Nam, khi hiện lúc ẩn, rất là long đong khổ sở.

Một ngày nọ, đức Cao Hoàng bị thất trận to, quân Tây Sơn đuổi theo, ngài cùng ông Nguyễn Huỳnh Đức vượt suối trèo non, ngẫu nhiên đến chùa Long Tuyền, bèn vào tỵ nạn. Lúc ấy, Hòa Thượng trụ trì chùa là Ngài Nguyễn Phước Chánh, đạo hiệu Nguyệt Hiện Thiền sư. Khi Cao Hoàng đến chùa, cách trang phục như kẻ thường dân, nói là khách phương xa đến xin nghỉ nhờ, Ngài chẳng cho biết rõ tung tích. Hòa thượng Nguyệt Hiện là người thông minh, xem dung mạo cử chỉ và xét tình thế hiện tại cũng đã thầm nghi, nhưng chẳng nói ra, chỉ tiếp đãi tử tế mà thôi. Lúc ấy Cao Hoàng vì lo nổi nhà thế nước, thân thể lặn lội gió sương, nên cảm phải chứng thương hàn, ăn ngủ không an, tinh thần hoảng hốt, bệnh tình chỉ tăng chứ không giảm. Trong tình cảnh ấy, ông Nguyễn Huỳnh Đức lấy làm bối rối, vì chùa cách xa làng xóm, không biết đâu tìm thuốc, tìm thầy, thêm đức vua đương lúc ẩn tích, nên chưa quyết định ra sao. May thay, Hòa Thượng trụ trì là người giỏi về dược thảo, thấy vậy động dạ từ bi, nguyện xin điều trị. Nhân khi điều trị Thiền Sư thấy rõ nỗi tâm ưu của vua, lại sẵn có lòng nghi, nên cạn lời thưa hỏi. Đức Cao Hoàng thấy Hòa Thượng là người có vẻ từ bi, đạo hạnh, tính cách trung hậu nên Ngài nhận thật. Từ đó, Hòa Thượng gia tâm lo bề thuốc thang cơm cháu. Vài hôm sau, vua vừa khỏe thì quân Tây Sơn đuổi đến ruồng bắt. Lạ thay cửa chùa lúc ấy thoạt nhiên nhện giăng bích phủ cả lối vào, cảnh trông hoang vắng, như đã lâu không người đặt chân đến. Khi quân Tây Sơn rầm rộ đến nơi, thấy đường xá cỏ tranh rậm rạp, mạn nhện phủ che, do dự hồi lâu, rồi có lẽ nghĩ chắc không ai, nên kéo nhau đi thẳng. Lúc ấy, trong chùa Chúa tôi hoảng hốt, chưa biết nơi nào ẩn thân, thì Hòa Thượng trực nhớ cái Đại hồng chung trên đại điện, liền quì xuống tâu với vua, xin vua tạm vào đó lánh nạn.

Đức Cao Hoàng nhận lời, Hòa Thượng cùng vài điệu nhỏ phụ nhau úp chuông xuống, dọn dẹp xong xuôi, đoạn ông Nguyễn Huỳnh Đức thoát ra ngoài tìm chỗ ẩn dạng. Một vài phút sau, có toán quân nữa kéo đến tìm tiếp. Lúc ấy quân Tây Sơn thẳng vào bao vây xung quanh bên ngoài chùa, song chẳng thấy chi cả, sau cùng đến chỗ Đại hồng chung, một ít tên quân có ý nghi, cùng nhau xô thử, song chẳng thấy chuyển, chúng kêu lại thật đông, góp sức nhau đẩy lên. Nhưng lạ thay, càng đẩy càng không thấy xê xích chút nào, quân sĩ ngơ ngẫn, cùng nhìn nhau lấy làm lạ. Vừa lúc ấy có viên thủ lãnh quân bàn rằng: “Cái chuông này nằm đây đã lâu, mà trong chùa có ông già với điệu nhỏ làm thế nào mà đỡ nổi đặng, thôi chúng ta đi tìm kiếm nơi khác kẻo mất thời giờ”. Quân sĩ không biết làm sao, lại vì tuân lệnh thủ lãnh nên kéo nhau đi hết. Vì thế mà Đức Cao Hoàng thoát nạn. Ấy cũng bởi Cao Hoàng là vị chơn mạng Đế vương và cũng nhờ Tam Bảo oai linh, nên khiến Thánh Thần mặc hộ. Khi quân Tây Sơn hết tìm kiếm, đức Vua vẫn còn ở lại chùa vài ngày, bịnh tình đã thuyên giảm, bèn tính cùng ông Nguyễn Huỳnh Đức dời chân đi. Hòa Thượng thấy vua trong mình hãy còn yếu, nên hết lời mời vua ở lại uống thuốc thật khỏe rồi đi. Nhưng đức Cao Hoàng vẫn một dạ quyết định, biết thế cản ngăn không đặng, Thiền Sư sắm sửa lương phạn cùng đồ hành lý, rồi lén đưa chúa tôi đến Hà Tiên.

Đến khi Cao Hoàng an ban phục quốc rồi, nhớ lại chuyện cũ, bèn hạ chiếu chỉ, mời Hòa Thượng Nguyễn Phước Chánh lai Kinh. Cảm ơn Phật lực hộ trì, đức vua tu bổ và phong cho hiệu chùa là: “Sắc Tứ Linh Thứu Cổ Tự” (   ), lại cũng vì nhớ công phụng sự, vua sắc phong cho ngài Nguyễn Phước Chánh hàm ân là Mẫn Huệ Thiền Sư Đại Lão Hòa Thượng.

Chữ Linh Thứu trên đây, tiếng Phạn gọi là: “Kỳ-xà- quật”, nguyên vốn tên hòn núi mà đức Phật Thích Ca Mâu Ni thường thuyết Pháp khi xưa. Bởi cảm ân cứu tử và truy cứu ra điển tích, nên đức Vua dùng ý nghĩa ấy để sắc phong kỷ niệm. Lúc ấy nhằm niên hiệu Gia Long năm thứ nhất.

Từ đó về sau, đức Cao Hoàng hạ lệnh cho quan tỉnh lo săn sóc ngôi Đại Già Lam. Cứ mỗi năm có 12 người dân khỏi thâu thuế để sửa sang việc chùa. Mỗi khi Hòa Thượng đi ra đường thì có bê son tích trượng giàn hầu; Bởi thế thuở bấy giờ người trong xứ có câu ca dao rằng: 

“Sắc vua phong tặng bản vàng,

Trang nghiêm Phật Pháp vẻ vang nước nhà”.

Khi Hòa thượng sắp viên tịch, thì Ngài đội mão đắp y ngồi tọa thiền trước bàn Phật nơi chánh điện đúng giờ ngọ, vào ngày rằm tháng bảy mà viên tịch. Chuyện truyền ra ai cũng đều biết, có báo đến tỉnh, chẳng bao lâu ngoài triều phái quan quân vào lo việc điếu tế và xây Tháp rất trọng thể. Hiện nay Bảo Tháp của Mẫn Huệ Thiền Sư vẫn còn ở sau chùa. 

Kế thế Hòa thượng Nguyệt Hiện có Sư Trí Huệ. Ngài có đạo hạnh cao siêu, người người đều ngưỡng mộ.

Nối tiếp sư Trí Huệ là Hòa thượng Thoại Lâm. Ngài có đến kinh đô, vua phong cho đạo hiệu là Gia Lợi Đại Sư. Đại Sư là một bậc chơn tu, đạo đức cảm hóa đến loại bàn sanh. Tương truyền rằng thuở ấy phía sau chùa có cái ao lớn, những lúc trời chiều mát mẻ. Đại Sư tay lần chuổi bồ đề, chậm bước dạo quanh vườn đến ao, Ngài kêu con rùa thì rùa nổi lên, kêu cá thì cá trừng lên mặc nước, gọi ong thì ong bay lại đậu trên tay mà không chích. 

Sau khi Thoại Lâm Hòa thượng viên tịch, đệ tử của Ngài là ông Nguyễn Văn Nhàn, Pháp hiệu là Huệ Thắng Đại Sư kế thế. Đại Sư cũng là bực đạo đức chơn tu, khi lâm chung dự biết ngày giờ trước, nên mời hết bổn đạo đến từ giả rồi viên tịch. Vừa lúc ấy có bạch hào quang xông thẳng lên hư không. 

Vào khoản niên hiệu Thiệu Trị năm đầu, trong khi ban bố cho tất cả nhân dân, đức vua cũng có lòng chiếu cố đến các chùa, vì chùa Sắc Tứ có công với đức Cao Hoàng, càng được chú trọng hơn nữa. Hiện nay tấm biển của đức Thiệu Trị trùng phong cho hãy còn. Hân hạnh thay! Chùa Linh Thứu lúc ấy bên ngoài thì nhân dân tán ngưỡng, bên trong lại có các bậc Đại Đức trụ trì, như đèn gần gương sáng, như gấm điểm thêm hoa, cái thanh thế rực rỡ vẻ vang biết là dường bao.

 

Nhưng nước hết lớn rồi lại ròng, trăng tròn rồi lại khuyết, biển cả ruộng dâu hằng lẽ thế, gò cao lầu rộng nghỉ thêm thương! Các tướng vốn không thường sao khỏi có thời kỳ biến đổi. Trong đời đức Dực Tôn Hoàng Đế, gặp hồi Pháp quốc thế mạnh sang chiếm xứ Nam Kỳ, thì nước nhà rối loạn, chúa tôi thất thủ, Phật Pháp cũng vì đó mà suy đồi. Đạo Thiên Chúa nhân đó lấy chùa làm cơ quan truyền giáo trải qua một thời gian khá lâu. Thời gian sau, nhờ ông cai tổng Nguyễn Văn Ngươn thấy việc bất bình, làm đơn ra giữa tòa công án Langsa kiện đòi chùa lại, thờ Phật y như củ. Đạo Thiên Chúa phải lập nhà Thờ riêng (hiện nay nhà thờ Thiên Chúa vẫn còn ở cách chùa chừng vài trăm mét). Vì cớ ấy nên những sắc ấn của đức Cao Hoàng phong cho, đã tiêu lạc hết. Trong chùa hiện nay vẫn còn có: hai tấm biển, một tấm đề “Long Tuyền Tự”; một tấm là đề “Sắc Tứ Linh Thứu Tự”; một vị Phật bằng đồng đen cao 8 tất tây, và cái hồng chung có khắc chữ Gia Long Sắc Tứ. Đó là những vật củ kỷ còn di tích lại.

 

Đến niên đại Bảo Đại thứ 12, đức Hoàng Thượng niệm tình đến chùa có công ơn với Hoàng Tổ thuở  xưa, cũng truy phong cho tấm biển đề mấy chữ như vầy: “Nam triều lễ nghi bộ cung lục, Sắc Tứ Linh Thứu cổ tự. Bảo Đại thập nhị niên lục ngoạt kiết nhựt”.

Hay thay, nhờ oai thần Tam Bảo hộ trì, mà chùa Sắc Tứ được mấy đời chiếu cố, tiếng khen ngợi đồn xa, ai nghe đến không khỏi chút lòng ngưỡng mộ. 

Ông Đặng Hồng Vân, người Trung Kỳ, tỉnh Hà Tĩnh, một chuyến vào Nam chơi, đến viếng chùa Sắc Tứ có cảm đề một bài thi như sau:

SẮC TỨ LINH THỨU SỰ TÍCH THI

Dực chúa công cao ngưỡng Phật nhơn,

Hoàng hoàng Sắc Tư tự trung xuân,

Long Tuyền địa chiến thiên thu nguyệt,

Linh Thứu thiên khai vạn cổ vân,

Nhứt thốc lâu đài chiêm hoán cựu,

Lưỡng triều vỏ lộ cảnh trùng tân,

Hồi tư thánh giá quang lâm nhựt,

Sắc sắc không không biệt hữu thần.

 

Tạm dịch:

Công cao giúp chúa cảm từ vương,

Sắc Tứ chùa nay rạng vẻ xuân,

Nguyệt rọi Long Tuyền ghi hiển tích,

Mây che Linh Thứu để trinh tường,

Lầu giăng một dãy lầu xưa khác,

Cảnh gội hai triều đượm móc sương,

Xe thánh tưởng hồi khi ngự đến,

Sắc không tinh túy thảy riêng nhường.

Thích Thành Đạo

Cẩn Bút

Như vậy, từ buổi khai sơn mãi đến nay, đã trải qua hơn 16 đời trụ trì. Chư Hòa Thượng, Ni Trưởng tiền bối nhiều lần tu bổ, tôn tạo mới có được nét độc đáo cho ngôi chùa Sắc Tứ Linh Thứu như hiện nay. 

Về phần kiến trúc: Chùa được xây dựng hoàn toàn bằng gỗ quý theo kiến trúc nhà Nam bộ; Phần Chánh điện gồm 5 gian 2 chái với tổng cộng 48 cây cột gỗ căm xe, kèo chạm võ đậu, chồng rường đơn, máy lợp ngói âm dương. Phía trước Đại điện là ba gian thờ Tam thế Phật; Gian chính giữa có thờ thêm bộ Tây phương Tam Thánh. Mỗi gian thờ đều có trang trí hoành phi, gian giữa có gắn đôi liễn miêu tả về hai từ ‘Sắc Tứ’ của vua ban. Phía sau Đại diện là Ban thờ chư Tổ và chư Hòa Thượng tiền bối Trụ trì, tu tập tại Tổ đình.

Nối liền Đại điện với nhà Hậu Tổ là hai dãy nhà Đông và Tây lang bao bọc xung quanh giếng trời để lấy ánh sánh và gió từ thiên nhiên.

Nhà Hậu Tổ phía trước là Ban thờ tôn tượng Bồ tát Chuẩn Đề và trai đường; Phía sau, Ban giữa thờ ba vị Ni Trưởng, chư vị Ni Sư trụ trì Tổ đình. Hai bên tả hữu là Ban thờ chư vị Phật tử, thiện tín có công đóng góp lớn cho việc xây dừng Tổ đình qua nhiều thế hệ.

 

Nói về ngôi chùa, từ khi ba vị Ni Trưởng kế nghiệp, ngoài việc trùng tu cơ sở vật chất; Quý Ni Trưởng còn xây dựng nơi này thành chốn Già lam tịnh địa tu học cho Ni giới nói chung và Ni giới tỉnh Tiền Giang nói riêng. Năm 1956 ba vị Ni Trưởng đã cùng với chư Ni Trưởng Ni bộ Bắc tông mở lớp Sơ đẳng Gia giáo Phật học tại chùa Sắc Tứ Linh Thứu. Suốt khóa học bốn năm, Ni trưởng Thích Nữ Thông Huệ đảm nhận chức vụ Giám đốc kiêm Giáo thọ sư, chăm lo sự nghiệp giáo dục đào tạo lớp Ni kế thừa ở miền Tây Nam bộ và các tỉnh lân cận. Nơi đây, quý Ni Trưởng cũng đã nhiều lần được chư Tôn đức cho phép mở đại Giới đàn truyền Đại giới cho chư Ni nhiều thế hệ. Và cũng là điểm thường xuyên mở Khóa An cư tu học cho chư Ni tại Tiền Giang. 

Với Ni trưởng Thích Nữ Như Minh, từ khi đảm nhận chức vụ Trụ trì ngôi Tổ đình đến nay, Ni Trưởng đã từng bước kiến tạo lại khuôn viên chùa: Đặt Bia đá ghi nhận sơ lượt tiểu sử của Tổ đình để tiện cho mọi người đến chiêm bái Phật và tìm hiểu về ngôi chùa; Tôn tạo lại toàn bộ các ngôi Bảo Tháp của chư Tổ tiền bối được xây cất tại khuôn viên, …

Năm 2013, với mong muốn thuận tiện hơn cho mọi người được chiêm bái những Thánh tích của Phật giáo mà không có dịp về quê hương đức Phật tại đất nước Ấn Độ thăm viếng, Ni trưởng Thích Nữ Như Minh đã cho xây dựng bốn Thánh tích trứ danh của Phật giáo là: Lumbini (Lâm Tì Ni) nơi Phật Đản sanh, Bodhgaya (Bồ Ðề Ðạo Tràng) nơi Phật thành đạo, Sarnath (Lộc Uyển) nơi Phật chuyển pháp luân - thuyết pháp lần đầu tiên cho năm anh em Kiều Trần Như và Kusinara (Câu Thi Na) nơi Phật nhập Niết Bàn ở phía trước khung viên chùa. Công việc này đã góp phần tôn thêm vẽ đẹp và uy nghi của ngôi Cổ tự thân thương này.

Nhìn chung, chùa Sắc Tứ Linh Thứu, là một ngôi chùa có giá trị bề dày lịch sử, cũng như kiến trúc và mỹ thuật cổ kính so với các ngôi chùa ở miền Tây Nam bộ. Cho nên, chùa Sắc Tứ Linh Thứu được bộ Văn Hóa cấp bằng xếp hạng DI TÍCH CẤP TỈNH THÀNH PHỐ về  Nghệ Thuật Kiến Trúc vào ngày  9 tháng 12 năm  2010.

 

Hiện tại, chùa mang nét thánh thoát cổ kính, dáng vẻ uy nghiêm nhưng rất gần gũi khiến cho lòng người đến chùa, cảm nhận được sự bình yên, ấm cúng. Khi tham quan, du khách như được thưởng ngoạn cảnh sắc chan hòa giữa nắng ấm và khói hương lan tỏa, nơi chốn linh thiêng, gợi cho con người quên hết lao nhọc đời thường. 

Nguồn: Ban TTTT Phật Giáo Tỉnh Tiền Giang

Bình luận địa điểm

Không có dữ liệu

Thời gian mở cửa

Đang mở cửa
Đã đóng cửa
Thứ Thời gian mở Thời gian đóng Trạng thái
Thứ 2 08:00 16:30
Thứ 3 08:00 16:30
Thứ 4 08:00 16:30
Thứ 5 08:00 16:30
Thứ 6 08:00 16:30
Thứ 7 08:00 16:30
Chủ nhật 08:00 16:30

Chia sẻ địa điểm